Những biến chứng cần lưu ý trong thời kì hậu sản

 

1. Nhiễm trùng hậu sản : là tình trạng vùng kín bị nhiễm khuẩn trong thời kỳ hậu sản. vi khuẩn xâm nhập từ bộ phận sinh dục theo đường máu, nhiễm khuẩn ngược dòng từ âm đạo, cổ tử cung qua tổn thương đường sinh dục trong và sau sinh. Thường xảy ra trong thời kỳ hậu sản tức là 6 tuần sau sinh.

2. Chảy máu

- Ngay sau đẻ , thời gian đầu liên với sót rau, hay màng rau, phải vào viện nạo buồng tử cung lấy hết rau và màng.

- Muộn hơn liên quan với niêm mạc tử cung. Triệu chứng ra sản dịch hôi, tử cung còn to và đau và sốt sau đẻ cho phép chẩn đoán. Phải xét nghiệm dịch ở âm đạo cổ tử cung, hướng điều trị theo viêm niêm mạc tử cung.

- Ngoại lệ có trường hợp chảy máu do u xơ tử cung, nhưng phải điều trị theo hướng viêm niêm mạc tử cung cũng cho kết quả tốt. Nếu ra máu kéo dài, phải điều trị kháng sinh không kết quả nên nạo buồng tử cung, ở sản phụ mổ lấy thai phải loại trừ nhiễm trùng vết mổ.

3. Thiếu máu: hay gặp ở thời gian có thai, nặng lên do chảy máu khi bong rau hay mổ đẻ chảy máu.

4. Nhiễm trùng đường tiết niệu không phải là hiếm trong hậu sản. Có thể tái phát của nhiễm trùng có sẵn hay mới mắc phải trong khi đẻ do thông đái nhiễm khuẩn.

5. Cao huyết áp sau đẻ gặp ở sản phụ có nhiễm độc thai nghén nặng. Phải xét nghiệm chức năng thận trong 3 tháng sau đẻ để điều trị theo dõi tiên lượng.

6. Biến chứng tâm thần hiếm gặp, xuất hiện mất ngủ, mê sảng, lo lắng sau đấy rối loạn thần kinh.

7. Biến chứng muộn

+ Rong huyết: sót rau, polyd rau và quên vùng rau bám.

+ Mất kinh : Kinh thường có lại sau 6-8 tuần sau đẻ ở phụ nữ không cho con bú, có thể muộn hơn ở người cho con bú nhưng nói chung 5 tháng sau đẻ, nếu cho con bú kéo dài hơn nữa mất kinh có thể tồn tại lâu hơn.

+ Vô kinh do dính buồng tử cung: trong trường hợp nhiễm trùng, hay rong huyết cần phải nạo buồng tử cung.

+ Vô kinh do prolactin cao. Mất kinh do có thai.