Nuôi trưởng thành noãn non trong ống nghiệm ( In vitro- IVM)
IVM là một kỹ thuật mới trong hỗ trợ sinh sản, trong đó các phức hợp noãn- tế bào hạt quanh noãn chưa trưởng thành sẽ được chọc hút để nuôi trưởng thành bên ngoài cơ thể, không cần KTBT hay gây phóng noãn.
Sự khác biệt giữa IVM và TTTON ở hai điểm chính:
+ Không sử dụng hoặc sử dụng tối thiểu thuốc KTBT.
+ Chọc hút noãn ở giai đoạn chưa trưởng thành.
Những lợi thế của IVM
- Tác dụng phụ ít. IVM loại bỏ các biến chứng của KTBT, đặc biệt là nguy cơ quá khích buồng trứng ( QKBT ).
- Chi phí thấp. IVM làm giảm chi phí sử dụng thuốc KTBT và số lần tái khám siêu âm, xét nghiệm nội tiết so với quy trình TTTON thông thường, giảm thời gian điều trị, di chuyển đối với bệnh nhân ở xa, giảm căng thẳng cho bệnh nhân.
- Thân thiện hơn với bệnh nhân. Không cần phải chuẩn bị bệnh nhân trước khi bắt đầu điều trị và IVM có thể được thực hiện bất kỳ lúc nào, không phân biệt giai đoạn của chu kỳ kinh nguyệt.
Hiện nay IVM được chỉ định phổ biến nhất ở bệnh nhân PCOS. Các nhóm khác bao gồm bệnh nhân cần bảo tồn khả năng sinh sản gấp, hoặc trong trường hợp ung thư nhạy cảm với estrogen và trường hợp hội chứng kháng gonadotropin.
Hạn chế
Mặc dù có ưu thế hơn TTTON ở nhiều mặt nhưng rào cản lớn nhất khiến IVM chưa được áp dụng rộng rãi là tỷ lệ thành công chưa cao - Ở giai đoạn đầu của kỹ thuật này chỉ vào khoảng 20% trẻ sinh sống cho mỗi chu kỳ điều trị
Và trở ngại lớn nhất của IVM là kỹ thuật chọc hút khó hơn TTTON khiến số lượng noãn thu được ít hơn và tỉ lệ trưởng thành noãn kém do sự không đồng bộ trong quá trình trưởng thành của nhân và tế bào chất của noãn.
Thời gian thực hiện IVM
IVM có thể thực hiện vào đầu chu kỳ kinh, có hoặc không có sử dụng môi trường FSH. Noãn sau khi chọc hút sẽ được nuôi trưởng thành, sau đó quá trình ICSI được thực hiện thường quy như TTTON.
Sự ra đời của các kỹ thuật điều trị hiện đại, đặc biệt là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản giúp các cặp vợ chồng có cơ hội làm cha mẹ.